Nguyễn Thị Thật về đích ở vị trí thứ 5, không giành được huy chương. VĐV Việt Nam đã không bảo vệ được tấm HCB Asiad. Ảnh N.A. Chia sẻ nhanh với báo chí, Nguyễn Thị Thật cho biết cô đã gặp vấn đề về thể lực khi liên tục phải leo dốc bám đuổi VĐV người Hàn Thoát khỏi môi trường công sở với đầy rẫy áp lực, ràng buộc để sống một cuộc sống tự do, tự tại đang là mơ ước của nhiều người trẻ. Gần đây trong giới trẻ (từ 30 - 40 tuổi) có xu hướng "nghỉ hưu" sớm để làm những công việc mình ưa thích, công việc ít Tại hội nghị, thừa ủy quyền của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đại tướng Phan Văn Giang đã trao quyết định nghỉ hưu từ ngày 1-12-2021 đối với 6 đồng chí nguyên Ủy viên Trung ương Đảng công tác trong quân đội, gồm: Đại tướng Đỗ Bá Tỵ, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội, nguyên Ủy viên Thường vụ Quân ủy Tiểu Sử Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh NGUYỄN CHÍ THANH Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1914-1967) là một tướng lĩnh chính trị của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông từng công tác ở nhiều lĩnh vực khác nhau và đều có khả năng phát triển lĩnh vực đó nên còn được gọi là "Vị tướng phong trào". Ông cũng là Từ một nhóm sĩ quan hưu trí gồm đại tá Huỳnh Phương Bá, cố đại tá Nguyễn Đình Ngật, đại tá Nguyễn Xuân Đáng và cố thượng tá Phó Đức Vượng, tự nghiên cứu, học tập chữ Hán Nôm, tập hợp thành Tổ tự học chữ Hán Nôm P.Hòa Thuận Tây. Sau một thời gian, Tổ tự học chữ Hán Nôm P.Hòa Thuận Tây phát cash. Tướng về hưu là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, được đăng trên báo lần đầu tiên vào tháng sáu năm 1987. Tác phẩm là bức tranh hiện thực được khắc họa chi tiết về lối sống cùng tâm lý con người trong xã hội Việt Nam giai đoạn sau năm 1975. Vài nét khái quát về nhà văn Nguyễn Huy Thiệp Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày hai mươi chín tháng tư năm 1950 tại Thái Nguyên nhưng khi được mười tuổi thì nhà văn đã chuyển về quê ở Hà Nội để sinh sống rồi sau đó gắn bó với thủ đô đến tận những giây phút cuối đời. Từ thuở nhỏ, ông đã theo gia đình lưu lạc khắp các miền đồng bằng nông thôn Bắc Bộ. Những ký ức ngày thơ bé ấy đã hằn sâu trong trí nhớ của nhà văn và sau này, chúng trở thành những chất liệu hiện thực đắt giá để ông sáng tạo nên các tác phẩm nghệ thuật của mình. Thông tin giản lược về nhà văn Nguyễn Huy Thiệp Nguyễn Huy Thiệp tốt nghiệp khoa sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội và từng có thời gian dài tham gia dạy học ở vùng rừng núi Tây Bắc. Đó là lý do vì sao ta bắt gặp rất nhiều các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn được lấy cảm hứng từ những câu chuyện lịch sử, tiểu biểu như là bộ ba Kiểm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết với sự xuất hiện của vua Gia Long hay Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam và Chút thoáng Xuân Hương. Bên cạnh đó, những năm tháng sinh sống và làm việc giữa đất trời Tây Bắc cũng đã cho ông nhiều linh cảm để sáng tác nên những áng văn gây ấn tượng mạnh như Muối của rừng hay Những ngọn gió Hua Tát. Ngòi bút truyện ngắn đậm chất Nguyễn Huy Thiệp Nhà văn bộc lộ sức sáng tạo dồi dào của mình ở nhiều lĩnh vực từ viết văn xuôi đến sáng tạo kịch bản và thậm chí là ra mắt tiểu luận văn chương. Thế nhưng thể loại văn học mà Nguyễn Huy Thiệp để lại dấu ấn cá nhân đậm nét nhất chính là truyện ngắn. Chân dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp Nguyễn Huy Thiệp không né tránh mà nhìn thẳng vào mặt trái của hiện thực và phơi bày tất cả ung nhọt của xã hội, sự mai một của những giá trị tinh thần bằng những câu văn ngắn, tốc độ nhanh và ngữ pháp đơn giản. Các câu văn trong truyện ngắn của ông đa số là câu đơn, tạo nên nhiều khoảng trắng và biến thiên truyện thành những mảnh vụn vỡ tưởng chừng như rời rạc nhưng thực chất sau những khoảng trắng ấy là nhiều ẩn dụ đầy ám ảnh. Người trao quyền phán xét cho độc giả Nổi bật trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là một giọng văn cô đọng, khách quan và có phần sắc lạnh. Nhà văn thường viết những cái kết mở và thậm chí ở một số truyện ngắn, ông còn xây dựng nhiều kết cục khác nhau cho một nhân vật. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sở hữu giọng văn khách quan và độc đáo Bằng lối trần thuật ấy, thế giới nhân vật và nội dung câu chuyện luôn hiện ra một cách trung thực trước mắt người đọc, độc giả không bị chi phối bởi thiên kiến của người sáng tác mà được tự do nhìn nhận tác phẩm từ góc độ của mình. Mở ra với muôn vàn khả năng và sự biến thiên lạ kỳ, các tác phẩm của ông luôn khiến ta phải suy tư về các nhân vật, trăn trở trước những mặt tối của đời sống và thậm chí là trở ngược vào bên trong mà tự vấn chính mình. Sự kết hợp độc đáo giữa thơ và văn xuôi Các vần thơ được Nguyễn Huy Thiệp vận dụng đến từ nhiều nguồn khác nhau, có khi đó là thơ mượn của các nhà thơ khác như Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi hay Nguyễn Du, có khi là thơ ca dân gian được tác giả sáng tạo lại và thậm chí nhiều bài còn do chính nhà văn sáng tác. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã kết hợp nhuần nhuyễn hai thể loại thơ và văn xuôi Việc đưa thơ vào văn xuôi không phải là một ý tưởng hoàn toàn mới mẻ, ta nhớ đến Nguyễn Tuân trong tùy bút Người lái đò sông Đà của mình đã mang những vần thơ đậm chất trữ tình lên làm lời đề từ cho trang văn. Thế nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp, ta mới thấy việc sử dụng thơ song hành với văn xuôi trở đi trở lại trong các tác phẩm của ông tạo nên hiệu ứng thẩm mỹ đậm nét và hình thành một phong cách nghệ thuật đặc trưng. Những vần thơ được nhà văn chêm vào không chỉ dừng lại ở việc làm đề từ mà còn góp phần thể hiện dòng suy nghĩ của nhân vật, tăng tính trữ tình cho thể loại tự sự và giúp tác giả có điều kiện khắc họa sự đa diện, nhiều chiều của cuộc sống trong các tác phẩm của mình. Tướng về hưu là hiện thực cuộc sống thời hậu chiến Tướng về hưu được viết dưới dạng thức những dòng nhật ký của nhân vật Thuần, người con trai của một vị tướng cả đời phục vụ cách mạng và chiến đấu cho độc lập tự do về những ngày tháng cha mình chấm dứt bao vất vả đời lính để an hưởng tuổi già giữa xã hội hòa bình. Suốt thời thơ ấu của Thuần, bóng dáng cha chỉ nhạt nhòa hiện hữu qua đôi dòng thư từ ngắt quãng thế nên với lần về hưu này của vị tướng Thuấn, ta mong chờ đây sẽ là dịp để hai người hàn gắn mối quan hệ và bù đắp những mất mát trong quá khứ. Bìa sách Tướng về hưu Ấy vậy mà Nguyễn Huy Thiệp đã đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Sự trở về của cha Thuần không mang lại tình cảm ấm áp bị đánh cắp bao năm thay vào đó nó lại khiến anh thấy rõ sự trống rỗng và mai một nơi từng người thân trong gia đình mình và thậm chí là nơi mỗi con người trong cả xã hội đương thời. Mỗi chương truyện qua đi là sự nối tiếp của những nứt vỡ để bộc lộ dáng hình cô đơn của con người, tô đậm sự lạc lõng và mất kết nối cũng như làm nổi lên niềm trăn trở về khoảng cách giữa chiến tranh và hòa bình. Cuộc đời đa diện, lòng người đa đoan trong Tướng về hưu Đã có một thời đại, văn chương mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, từng câu văn nặng về ca ngợi những phẩm chất cao cả của những con người thuộc về cộng đồng nhân dân ta và dân tộc ta. Một bìa sách khác của truyện ngắn Tướng về hưu Ở mỗi tác phẩm đều tồn tại một lằn ranh phân tuyến “địch-ta” với lăng kính đánh giá cuộc đời vô cùng giản đơn rằng thế giới của địch thì luôn xấu xa, tiêu cực còn cộng đồng người của ta thì phổ biến với nhiều mặt tốt đẹp, lạc quan, hy vọng và lòng quyết tâm sắt đá giành lại độc lập tự do. Nói cách khác, khi ấy văn học trở thành công cụ để minh họa cho lý tưởng Đảng, niềm tin dân tộc và cổ vũ không khí chiến đấu. Tướng về hưu là một trong những truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp Thế rồi, chiến tranh kết thúc, phe địch, tượng trưng cho cái xấu đã bị diệt trừ, phe chính nghĩa là quân ta toàn thắng, nhân dân mang niềm háo hức và vui sướng bước vào nền hòa bình trong cõi lòng ngập tràn hy vọng về những ngày tháng mới tươi sáng. Hòa theo không khí chiến thắng, nền văn học nước nhà tiếp tục phát triển theo quán tính của sự minh họa được nhắc đến ở trên nhưng trong lúc đó, có những nhà văn đã tỉnh dậy khỏi hào quang của cuộc chiến để trở về với đời sống hiện thực và nhận ra những thay đổi thầm lặng nhưng đáng cảnh báo đang dần làm mai một nhân cách con người trong xã hội đương thời. Nguyễn Minh Châu là “một trong những người mở đường tinh anh và tài năng” cho việc thay đổi tư duy khác thác hiện thực này và Nguyễn Huy Thiệp đã tiếp bước con đường mà nhà văn của Bức tranh hay Chiếc thuyền ngoài xa chỉ ra. Bìa sau của tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp Trong thế giới của Tướng về hưu, các nhân vật không hiện lên với sự tươi sáng giản đơn, ta chẳng thể nào phân biệt một cách rạch ròi ai mới thực sự là người tốt và đâu là kẻ xấu. Thay vào đó, nhà văn đã dùng ngòi bút cô đọng và sắc lạnh để đẽo gọt tỉ mỉ từng dáng vẻ phức tạp cùng trăm mối mâu thuẫn ngổn ngang trong từng nhân vật. Cô Thủy là mẫu người của lối sống thực dụng đầy sa đọa, cô xem đồng tiền là cứu cánh và sẵn sàng vụ lợi trên mọi phương diện. Thế nhưng ta cũng không thể nào phủ nhận Thủy là một nàng dâu sắc sảo, nết na, hiểu thấu nhân tình thế thái và biết cách quán xuyến chu đáo mọi việc trong nhà. “Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn.” – Tướng về hưu Ông Bổng, em trai cùng cha khác mẹ với vị tướng về hưu Thuấn, luôn khiến người đọc phản cảm với sự tham lam, trơ trẽn và giảo hoạt của mình. Thế nhưng vào thời khắc ông bật khóc vì được gọi “là người”, ta bỗng nhiên chỉ có thể câm nín và thở dài trong bất lực. Tướng về hưu mang ý nghĩa cảnh tỉnh sâu xa Thiên tiểu thuyết đã cho ta thấy được khoảng cách giữa đời sống hòa bình hậu chiến và sự văn minh, phát triển thực sự của một quốc gia. Bi kịch lạc loài của vị tướng Thuấn cùng niềm cô đơn của nhân vật Thuần trong một xã hội chạy theo lối sống vật chất, thực dụng mà bấy giờ người người cho là tiến bộ đã khiến ta nhận ra một sự thật. Tướng về hưu đã mang thức tỉnh sâu sắc lương tâm bạn đọc Thành quả của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mấy chục năm qua chỉ mới là tiền đề cho sự phát triển chứ không phải là điều kiện chín muồi để cải tạo xã hội cũ và xây dựng cuộc sống mới. “Cái Vi bảo “Đấy có phải là ngậm miệng ăn tiền không bố?” Tôi khóc “Các con không hiểu đâu. Bố cũng không hiểu, đấy là mê tín.” Cái Vi bảo “Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần.” Tôi thấy cô đơn quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả cha tôi nữa.” – Tướng về hưu Để hoàn thành được mộng lớn của dân tộc, ta còn phải bắt tay vào giải quyết những vấn đề khó khăn và phức tạp hơn rất nhiều, từ việc vứt bỏ cái lạc hậu trong quá khứ, loại trừ mầm mống của sự tha hóa mới nảy sinh đến đưa ra những giải pháp thiết thực để đảm bảo an sinh xã hội và giúp đất nước đi lên một cách bền vững. Đó là một hành trình rất dài và sẽ luôn tiếp diễn, nó đòi hỏi sự chung tay góp sức không những của những thế hệ cha ông xưa mà còn là của lớp người trẻ ngày nay và mãi sau này nữa. Tướng về hưu đã tạo nên làn sóng bàn luận sôi nổi trên văn đàn Hiếm có nhà văn nào mà ngay từ khi ra mắt với độc giả và giới văn nghệ đã nhận được sự quan tâm lớn như Nguyễn Huy Thiệp. Với Tướng về hưu, ông đã tạo nên đời sống văn học sôi nổi kéo dài cả mấy năm trời và còn nóng bỏng đến tận bây giờ. Có rất nhiều bài phê bình, đánh giá, bàn luận và phát biểu cảm nghĩ hướng về tác phẩm, từ bao lời khen cho sự độc đáo trong nội dung và cách viết ấn tượng của nhà văn đến những tranh cãi vây quanh giọng văn sắc lạnh khi Nguyễn Huy Thiệp đề cập đến những mặt trái của thời kỳ quá độ. Truyện ngắn Tướng về hưu đã khuấy động sâu sắc sự quan tâm của dư luận Dù nhà văn đã phải hứng chịu bao ánh mắt xem xét và thăm dò, đến cuối cùng độc giả cùng giới phê bình đều đồng lòng công nhận tài năng văn chương xuất sắc của Nguyễn Huy Thiệp. Ngòi bút của ông có thể thẳng thắn vạch trần cái xấu, cái ác bằng một giọng văn dửng dưng và tàn nhẫn nhưng trái tim nhà văn chưa bao giờ thôi đau đớn trước những điều trông thấy. Tác giả của Tướng về hưu đã đi đến tận cùng trong việc phơi bày sự đốn mạt của con người để thức tỉnh lương tâm xã hội. Từ văn học đến điện ảnh Lấy cảm hứng từ tác phẩm văn học cùng tên được chấp bút bởi nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, phim Tướng về hưu là một trong những tác phẩm xuất sắc của điện ảnh Việt Nam giai đoạn đầu đổi mới. Dưới sự chỉ đạo diễn xuất tài tình của đạo diễn Nguyễn Khắc Lợi và sự góp mặt của hàng loạt những nghệ sĩ tên tuổi lúc bấy giờ như NSND Hoàng Cúc hay NSƯT Đoàn Anh Thắng, bộ phim đã phần nào chuyển tải được tinh thần của nguyên tác và thành công mang về Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1990. Ảnh quảng bá phim Tướng về hưu Tháng ba năm 2021 giới văn nghệ và các thế hệ độc giả bao năm gắn bó với Nguyễn Huy Thiệp đã trải qua một mất mát lớn trước sự ra đi của nhà văn. Thế nhưng với những đóng góp to lớn mà ông đã để lại cho nền văn học nước nhà, ta tin chắc rằng tâm hồn và cốt cách Nguyễn Huy Thiệp sẽ mãi kết nối với bạn đọc thông qua các hình tượng nhân vật sống động của mình. Hạnh Vi Nguyễn Huy Thiệp Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp vừa qua đời ngày 20/3/2021 tại Hà Nội, Việt Nam. Sáng Tạo đăng lại truyện ngắn Tướng về hưu của ông để chúng ta cùng đọc và tưởng tiếc một văn tài. I. Khi viết những dòng này, tôi đã thức tỉnh trong vài người quen những cảm xúc mà thời gian đã xóa nhòa, và tôi đã xâm phạm đến cõi yên tĩnh nấm mồ của chính cha tôi. Tôi buộc lòng làm vậy, và xin người đọc nể nang những tình cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho ngòi bút kém cỏi của tôi. Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha mình. Cha tôi tên là Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải, tôi không tường mặt, chỉ nghe nói là một người đàn bà cay nghiệt vô cùng. Sống với dì ghẻ, cha tôi trong tuổi niên thiếu đã phải chịu đựng nhiều điều cay đắng. Năm mười hai tuổi, cha tôi trốn nhà ra đi. Ông vào bộ đội, ít khi về nhà. Khoảng năm… cha tôi về làng lấy vợ. Chắc chắn cuộc hôn nhân này không do tình yêu. Mười ngày nghỉ phép bề bộn công việc. Tình yêu đòi hỏi điều kiện, trong đó thời gian cũng cần. Khi lớn lên, tôi chăng biết gì về cha mình cả. Tôi chắc mẹ tôi hiểu về cha tôi cũng ít. Cả đời cha tôi gắn với súng đạn, chiến tranh. Tôi đi làm, lấy vợ, sinh con. Mẹ tôi già đi. Cha tôi vẫn đi biền biệt. Thỉnh thoảng cha tôi cũng ghé về nhà, nhưng những lần về đều ngắn. Cả những bức thư cha tôi gửi về cũng ngắn, dầu rằng dưới những dòng chữ, tôi biết ở đấy ẩn chứa nhiều tình thương cùng với âu lo. Tôi là con một, tôi đã chịu ơn cha tôi về đủ mọi mặt. Tôi được học hành, được du ngoại. Cả những cơ sở vật chất gia đình cũng do cha tôi lo liệu. Ngôi nhà tôi ở ven nội, xây dựng trước khi cha tôi về hưu tám năm. Đấy là một biệt thự đẹp nhưng khá bất tiện, tôi đã xây cất dựa theo thiết kế của một chuyên gia kiến trúc trứ danh, bạn của cha tôi, ông này đại tá, chỉ thạo việc xây doanh trại. Năm bẩy mươi tuổi, cha tôi về hưu với hàm thiếu tướng. Mặc dầu biết trước, tôi vẫn ngỡ ngàng khi cha tôi về. Mẹ tôi đã lẫn bà hơn cha tôi sáu tuổi, vì vậy thực ra ở nhà chỉ có mình tôi có những tình cảm đặc biệt với sự kiện này. Mấy đứa con tôi còn bé. Vợ tôi biết ít về ông, vì hai chúng tôi lấy nhau khi mà cha tôi đang bặt tin tức. Bấy giờ đang có chiến tranh. Tuy thế, ở trong gia đình, cha tôi bao giờ cũng là hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng. Cha tôi về nhà, đồ đạc đơn sơ. Cha tôi khỏe. Ông bảo “Việc lớn trong đời cha làm xong rồi!” Tôi bảo “Vâng”. Cha tôi cười. Tâm trạng xúc động lây sang cả nhà, mọi người chuếnh choáng đến nửa tháng trời, sinh hoạt tùy tiện, có hôm mười hai giờ đêm mới ăn cơm chiều. Khách khứa đến chơi nườm nượp. Vợ tôi bảo “Không để thế được”. Tôi cho mổ lợn, đi mời họ hàng làng nước đến để chia vui. Làng tôi tuy gần thành phố nhưng mà tập tục nông thôn còn giữ. Đúng một tháng sau, tôi mới có dịp ngồi với cha tôi bàn chuyện gia đình. II. Trước khi kể tiếp, xin nói về gia đình tôi. Tôi ba mươi bẩy tuổi, là kỹ sư, làm việc ở Viện Vật lý. Thủy, vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa mười bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lẫn lộn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ. Ngoài những người trên, gia đình tôi còn có ông Cơ và cô con gái gàn dở của ông. Ông Cơ sáu mươi tuổi, quê Thanh Hóa. Vợ tôi gặp cha con ông khi nhà của họ bị cháy, cơ nghiệp mất sạch. Thấy cha con ông tốt bụng, đáng thương, vợ tôi sắp xếp cho họ ở với chúng tôi. Cha con ông ở dưới nhà ngang, sinh hoạt riêng rẽ nhưng mọi chế độ thì do vợ tôi chu cấp. Không có hộ khẩu, họ không có những tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm như những người dân khác trong thành phố. Ông Cơ hiền lành, chịu khó. Thường ông đảm nhiệm việc chăm vườn tược, lợn gà và đàn chó giống. Nhà tôi nuôi chó béc-giê. Tôi cũng không ngờ việc kinh doanh chó lại thu lợi lớn. Khoản thu này trội nhất trong nhà. Cô Lài mặc dầu gàn dở nhưng lại xốc vác và nội trợ giỏi. Vợ tôi dạy cô cách thức nấu bóng, nấu nấm, nấu gà hầm. Cô bảo ” Cháu chẳng ăn thế bao giờ”. Cô không ăn thật. Cả hai vợ chồng và hai con tôi không phải lo toan công việc gia đình. Từ ăn uống, giặt giũ, tất cả giao cho hai người giúp việc. Vợ tôi cầm chịch các khoản chi tiêu. Tôi bận nhiều việc, hiện đang vùi đầu vào công trình ứng dụng điện phân. Cũng cần nói thêm quan hệ tình cảm của vợ chồng tôi êm thấm. Thủy có học thức, sống theo lối mới. Chúng tôi suy nghĩ độc lập, nhìn nhận vấn đề xã hội tương đối giản dị. Thủy am tường các việc lo liệu kinh tế cũng như dạy dỗ con cái. Còn tôi, hình như tôi khá cổ hủ, đầy bất trắc và thô vụng. III. Tôi quay lại đoạn kể cha con tôi bàn việc gia đình. Cha tôi bảo “Nghỉ rồi, cha làm gì?” Tôi bảo “Viết hồi ký”. Cha tôi bảo “Không!”. Vợ tôi bảo “Cha nuôi vẹt xem”. Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim hoạ mi, chim vẹt. Cha tôi bảo “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời. Cha tôi bảo “Để xem đã!” Cha tôi cho mỗi người trong nhà bốn mét vải lính. Ông Cơ và cả cô Lài cũng thế. Tôi cười “Cha bình quân! ” Cha tôi bảo “Đấy là lẽ sống”. Vợ tôi bảo “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại”. Mọi người cười ồ. Cha tôi muốn ở một phòng dưới dãy nhà ngang giống như mẹ tôi. Vợ tôi không chịu. Cha tôi buồn. Việc để mẹ tôi ăn riêng, ở riêng làm ông bứt rứt. Vợ tôi bảo Tại mẹ lẫn”. Cha tôi đăm chiêu. Tôi cũng không hiểu sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận. Cha tôi bảo “Các cháu có sách gì mang cho ông đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo ” Cái gì dễ đọc”. Hai đứa bảo “Thế thì không có”. Tôi đặt báo hàng ngày cho ông. Cha tôi không thích văn học. Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó vào. Một hôm tôi đi làm về, cha tôi đứng ở dãy nhà vợ tôi nuôi chó và gà công nghiệp. Trông ông không vui. Tôi hỏi ” Có chuyện gì thế?” Ông bảo “ông Cơ và cô Lài vất vả quá. Họ làm không hết việc, cha muốn giúp họ được không?” Tôi bảo “Để con hỏi Thủy”. Vợ tôi bảo “Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà làm lính thì dễ loạn cờ”. Cha tôi không nói năng gì. Cha tôi nghỉ hưu nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc nhiên, thậm chí thích thú. Vợ tôi bảo “Đừng mừng… họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá sức”. Cha tôi cười “Chẳng có gì đâu… cha chỉ viết thư. Thí dụ Thân gửi N. tư lệnh quân khu… Tôi viết thư này cho cậu… Hơn năm mươi năm, đây là lần đầu tôi ăn tết mồng ba tháng ba dưới mái nhà mình. Hồi ở chiến trường, hai đứa chúng mình đã từng mơ ước v. v… Cậu nhớ cái xóm ven đường, cô Huệ đã làm bánh trôi bằng bột mì mốc. Bột mì bê bết trên lưng Nhân đây M. là người tôi quen, muốn được công tác dưới quyền của cậ u “. Cha viết như thế được không?” Tôi bảo “Được”. Vợ tôi bảo “Không được! ” Cha tôi gãi cằm “Người ta nhờ mình”. Cha tôi thường bỏ thư viết vào phong bì đựng công văn bằng giấy cứng, cỡ 20×30, trên có in chữ Bộ quốc phòng, rồi đưa cho người nhờ vả mang đi. Sau ba tháng, hết sạch loại phong bì ấy. Ông làm phong bì bằng giấy bìa học sinh cũng to bằng cỡ 20×30. Một năm sau, ông cho thư vào thứ phong bì bình thường vẫn bán ở quầy bưu điện, giá năm đồng một chục cái. Tháng bảy năm ấy, tức là ba tháng sau ngày cha tôi về nghỉ, chú họ tôi, ông Bổng, cưới vợ cho con. IV. Ông Bổng với cha tôi là anh em cùng cha khác mẹ. Thằng Tuân con trai ông làm nghề đánh xe bò. Hai cha con đều ghê gớm, to như hộ pháp, ăn nói văng mạng. Thằng Tuân lấy vợ lần này là lần thứ hai. Vợ trước bị đánh đau quá, bỏ đi. Ra tòa, nó khai là vợ theo trai, tòa phải chịu. Cô vợ lần này tên là Kim Chi, làm nghề nuôi dạy trẻ, con nhà có học hẳn hoi, xí xớn thế nào nghe nói có thai với nó. Kim Chi là cô gái đẹp, làm vợ thằng Tuân đúng là “hoa nhài cắm bãi cứt trâu “. Thâm tâm chúng tôi không ưa cha con ông Bổng, khốn nỗi “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, giỗ tết vẫn phải đi lại, nhưng mà ngày thường cũng nhạt. Ông Bổng hay nói “Quân trí thức khốn nạn! Rẻ dân lao động! Nể bố nó, không tôi cạch cửa!” Nói thế thôi, ông Bổng vẫn sang vay tiền. Vợ tôi khe khắt, bao giờ cũng bắt ông phải ký cược. Ông Bổng rất ức, ông nói “Mình là chú nó, trót vay nợ nó mà nó cư xử hệt như địa chủ”. Nhiều món nợ ông cứ lờ đi không trả. Cưới vợ cho con, ông Bổng nói với cha tôi “Anh phải đứng ra chủ hôn, bố cháu Kim Chi vụ phó, anh là tướng, thế là “môn đăng hộ đối”. Sau này các cháu nhờ phúc của ông, như tôi là thằng phu xe, báu gì.” Cha tôi bằng lòng. Đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc comlê đen, cravat đỏ. Tôi phải cho mượn cái cravat đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn, chắc gì đòi được. Phù rể là sáu thanh niên ăn mặc hệt nhau, đều quần bò, râu ria rất hãi. Đầu tiệc là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp Ừ… ê… cái con gà quay Ta đi lang thang khắp miền giang hồ Tìm nơi nào có tiền Tiền ơi, mau vào túi ta Ừ… ê… cái con gà rù… Sau đó đến lượt cha tôi. Ông luống cuống, khổ sở. Bài văn chuẩn bị công phu hóa thừa. Kèn clarinét đệm rất bậy bạ sau dấu chấm câu. Pháo ầm ĩ. Trẻ con bình luận nhảm nhí. Cha tôi nhảy cóc từng đoạn. Ông cầm tờ giấy mà run bắn người. Một sự ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô thiển, thậm chí còn ô trọc nữa làm ông kinh hãi, đau đớn. Ông vụ phó thông gia cũng đâm hoảng hốt, luống cuống, làm đổ cả rượu xuống váy cô dâu. Chẳng nghe thấy gì. Dàn nhạc sống át đi bằng nhừng ca khúc vui vẻ quen thuộc của các ban nhạc Beatles và Abba. Sau đó, rắc rối đầu tiên đến với cha tôi là việc Kim Chi sinh cháu chỉ sau hôm cưới chục ngày. Gia đình ông Bổng bê bối. Ông say rượu, tống cổ cô con dâu ra cửa. Thằng Tuân cầm dao chém bố, may trượt. Vô phương, cha tôi phải đón cháu dâu về nhà. Gia đình tôi thêm hai khẩu. Vợ tôi không nói năng gì Cô Lài thêm một trách nhiệm. Được cái cô Lài vô tâm, tính lại yêu trẻ. V. Một tối, tôi đang đọc Sputnhich, cha tôi lặng lẽ đi vào. Ông bảo “Cha muốn nói chuyện với con”. Tôi pha cà phê, cha tôi không uống. Ông hỏi “Con có để ý công việc của Thủy không con? Cha cứ rờn rợn”. Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua, chẳng quan trọng gì. Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc. Ông cầm phích đá ném vào đàn chó béc giê “Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này”. Đàn chó sủa vang. Ông bỏ lên nhà. Vợ tôi di vào nói với ông Cơ “Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết?!” ông Cơ bảo “Cháu quên, cháu xin lỗi mợ”. Tháng mười hai, vợ tôi gọi người bán sạch đàn chó béc giê. Vợ tôi bảo “Anh thôi hút thuốc Galăng đi. Năm nay nhà mình hụt thu hai mươi bảy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng là bốn mươi lăm nghìn”. Kim Chi hết thời gian nghỉ, đi làm. Nó bảo “Cám ơn anh chị, em đưa con về nhà đây”. Tôi hỏi “Về đâu?” Thằng Tuân đã bị bắt giam vì tội côn đồ. Kim Chi đưa con về nhà của bố mẹ đẻ. Cha tôi đưa về tận nơi bằng xe tắcxi thuê riêng. Cha tôi ở chơi với ông vụ phó bố của Kim Chi một ngày. Ông này vừa đi công tác ở Ấn Độ về, ông biếu cha tôi một mảnh lụa hoa và nửa lạng cao tổng hợp. Cha tôi cho cô Lài mảnh lụa hoa, cho ông Cơ nửa lạng cao. VI. Trước tết Nguyên đán, ông Cơ nói với hai vợ chồng tôi “Cháu xin cậu mợ một việc”. Vợ tôi hỏi “Việc gì?” ông Cơ nói vòng vèo, chẳng đâu vào đâu. Đại để ông muốn về thăm quê. ở với chúng tôi sáu năm, cũng có dành dụm, ông Cơ muốn về bốc mộ bà vợ. Để lâu ngày chắc ván đã sụt. “Nghĩa tử là nghĩa tận”. ở thành phố, cũng muốn về thăm họ hàng làng xóm cho nó mát mặt. Bây giờ đã vậy, sau này “cáo chết ba năm quay đầu về núi”. Vợ tôi cắt lời “Thế bao giờ đi?” ông Cơ gãi đầu “Đi mười ngày, về Hà Nội trước hăm ba tết”. Vợ tôi tính “Được. Anh Thuần này Thuần là tên tôi, anh có nghỉ phép được không?” Tôi bảo “Được”. Ông Cơ bảo “Chúng cháu muốn mời ông về quê chơi. Như đi du lịch”. Vợ tôi bảo “Tôi không thích. Thế ông bảo sao?” ông Cơ bảo “Ông đồng ý rồi. Không có ông, cháu cũng chẳng nhớ đến việc cải mộ nhà cháu”. Vợ tôi hỏi “Thế hai cha con có bao nhiêu tiền?” ông Cơ bảo “Cháu có ba nghìn, ông cho hai nghìn là năm”. Vợ tôi bảo “Được, đừng lấy hai nghìn của ông, tôi bù cho hai nghìn ấy, lại cho thêm năm nghìn. Thế là hai cha con có chục nghìn. Đi được”. Trước hôm đi, vợ tôi làm cơm. Cả nhà ngồi ăn, có cả ông Cơ, cô Lài. Cô Lài vui lắm, mặc bộ quần áo mới may bằng vải cha tôi cho hôm về. Cái Mi và Cái Vi trêu “Chị Lài xinh nhất”. Cô Lài cười thỏn thẻn “Chả phải. Mợ mới xinh nhất”. Vợ tôi bảo “Em đi chú ý đỡ ông những khi tàu xe”. Cha tôi bảo “Hay thôi không đi?” ông Cơ giãy nảy “Chết, cháu đã điện rồi Mang tiếng chết”. Cha tôi thở dài “Tôi có tiếng gì mà mang?” VII. Cha tôi đi Thanh Hóa cùng ông Cơ và cô Lài vào sáng chủ nhật. Tối thứ hai, tôi đang xem tivi thì nghe tiếng “huỵch”, vội chạy ra ngoài thấy mẹ tôi ngã gục góc vườn. Mẹ tôi lẫn bốn năm nay, cho ăn biết ăn, cho uống biết uống, phải giục đi ngoài. Mọi hôm có cô Lài săn sóc không sao. Hôm nay, tôi sơ ý, cho ăn mà không giục đi ngoài. Tôi đỡ mẹ tôi vào, bà cụ cứ gục mặt xuống. Không thấy có vết đau. Nửa đêm tôi dậy, thấy mẹ tôi lạnh toát, mắt dại đi. Tôi sợ, gọi vợ tôi. Thủy bảo “Mẹ già rồi”. Hôm sau mẹ tôi không ăn, hôm sau nữa, cũng không ăn, không chủ động đi ngoài. Tôi giặt giũ, thay chiếu. Có ngày mười hai lần. Tôi biết Thủy và hai con tôi ưa sạch sẽ nên tôi thay giặt luôn, không giũ ở nhà mà mang ra tận kênh đào. Thuốc đổ vào cứ trớ ra. Hôm thứ bẩy, mẹ tôi bỗng ngồi dậy được. Đi lững thững một mình ra vườn. ăn được cơm. Tôi bảo ” Mừng rồi”. Vợ tôi không nói năng gì, chiều hôm ấy thấy mang về chục mét vải trắng, lại gọi cả thợ mộc. Tôi hỏi “Chuẩn bị à?” Vợ tôi bảo “Không”. Hai hôm sau, mẹ tôi nằm liệt, lại bỏ ăn, lại đi ngoài như cũ. Người dốc nhanh, thải ra thứ nước nâu sền sệt rất khắm. Tôi đổ sâm. Vợ tôi bảo “Đừng đổ sâm, khổ cho mẹ”. Tôi òa khóc. Rất lâu tôi mới òa khóc như thế. Vợ tôi nín lặng, rồi lại bảo “Tùy anh”. Ông Bổng sang thăm. Ông nói “Bà ấy cứ xoay ngang, xoay dọc trên giường như thế này là gay go lắm đấy!” Lại hỏi “Chị ơi, chị có nhận ra em không?”. Mẹ tôi bảo “Có”. Lại hỏi “Thế em là ai?” Mẹ tôi bảo “Là người”. Ông Bổng khóc òa lên “Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người”. Lần đầu tiên, cái ông chú đánh xe bò, lỗ mãng, táo tợn, làm đủ mọi điều phi nhân bất nghĩa hóa thành đứa trẻ ngay trước mắt tôi. VIII. Cha tôi về đến nhà thì sáu tiếng sau mẹ tôi mất. Ông Cơ và cô Lài nói “Tại chúng cháu. Chúng cháu ở nhà thì bà không mất”. Vợ tôi bảo “Nói nhảm”. Cô Lài khóc “Bà ơi, bà đánh lừa con bà đi! Sao bà không cho con đi hầu bà?” ông Bổng cười “Mày muốn đi hầu bà thì đi, tao cho đóng ván”. Khi liệm mẹ tôi, cha tôi khóc. Ông hỏi ông Bổng “Sao người bà ấy rút nhanh thế? Người già ai cũng chết khổ như thế này à?” ông Bổng bảo “Anh lẩm cẩm. Hôm nào nước mình cũng có hàng nghìn người chết khổ nhục vật vã đau đớn. Mỗi lính tráng các anh, “đòm” phát là sướng”. Tôi cho bắc rạp, bảo thợ mộc đóng quan tài. Ông Cơ cứ loay hoay bên đống ván vợ tôi cho xẻ hôm trước. Ông thợ mộc quát “Sợ chúng ông ăn cắp gỗ à?” ông Bổng hỏi “Ván mấy phân?” Tôi bảo “Bốn phân”. Ông Bổng bảo “Mất mẹ bộ xa lông Ai lại đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ? Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván”. Cha tôi ngồi âm thầm, trông rất đau đớn. Ông Bổng bảo “Chị Thủy luộc cho tôi con gà, nấu hộ nồi xôi”. Vợ tôi hỏi “Mấy cân gạo hả chú?” Ông Bổng bảo “Mẹ mày, sao hôm nay cứ ngọt xớt thế? Ba cân!” Vợ tôi bảo tôi “Họ hàng nhà anh kinh bỏ mẹ”. Ông Bổng hỏi tôi “Nhà này ai chủ trì kinh tế?” Tôi bảo “Vợ cháu”. Ông Bổng bảo “Đấy là ngày thường. Tao hỏi đám ma này thì ai chủ trì kinh tế.” Tôi bảo “Vợ cháu”. Ông Bổng bảo “Không được con ơi, khác máu tanh lòng. Tao bảo bố mày nhé”. Tôi bảo “Ông để con”. Ông Bổng bảo “Đưa tao bốn nghìn, mày định làm bao nhiêu mâm?” Tôi bảo “Mười mâm”. Ông Bổng bảo “Không đủ cho đô tùy rửa ruột. Mày bàn với vợ mày đi. Bốn mươi mâm”. Tôi đưa cho ông bốn nghìn rồi vào nhà. Vợ tôi bảo “Em nghe hết rồi, em tính ba chục mâm, tám trăm đồng một mâm, ba tám hai tư. Hai tư nghìn, phụ phí sáu nghìn. Việc mua bán em lo. Cỗ giao cho cô Lài. Đừng nghe ông Bổng, lão ấy đểu lắm”. Tôi bảo “ông Bổng cầm bốn nghìn rồi”. Vợ tôi bảo “Buồn anh lắm”. Tôi bảo “Anh đòi lại nhé”. Vợ tôi bảo “Thôi, coi như trả công. Lão ấy tốt nhưng nghèo”. Phường bát âm đến bốn người. Cha tôi ra tiếp. Nhập quan lúc bốn giờ chiều. Ông Bổng cạy miệng mẹ tôi cho vào chín đồng vừa tiền chinh Khải Định, vừa tiền một hào nhôm. Ông bảo “Để đi đò”. Lại cho vào cỗ bài tổ tôm, có lẫn cả mấy quân tam cúc. Ông bảo “Không sao, ngày xưa bà ấy vẫn chơi tam cúc”. Đêm ấy, tôi thức canh quan tài mẹ tôi, ngẫm nghĩ lan man đủ điều. Cái chết sẽ đến với mỗi chúng ta, chẳng trừ ai cả. Ngoài sân, ông Bổng với mấy bác đô tùy ngồi đánh tam cúc ăn tiền. Khi nào kết tốt đen, ông Bổng lại chạy vào vái quan tài mẹ tôi “Lạy chị, chị phù hộ cho em để em vét thật nhẵn túi chúng nó”. Cái Mi, cái Vi cũng thức với tôi. Cái Mi hỏi “Sao chết đi qua đò cũng phẫi trả tiền? Sao lại cho tiền vào miệng bà?” Cái Vi bảo “Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố”” Tôi khóc “Các con không hiểu đâu. Bố cũng không hiểu, đấy là mê tín”. Cái Vi bảo “Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần”. Tôi thấy cô đơn quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả cha tôi nữa. IX. Từ nhà tôi ra nghĩa dịa đi tắt chỉ năm trăm mét nhưng đi đường chính qua cổng làng phải hai cây số. Đường bé, không đẩy xe đòn được mà phải khiêng vai. Đô tùy thay nhau đến ba chục người, có nhiều người vợ chồng tôi không biết tên gì. Họ khênh quan tài hồn nhiên như việc bình thường vẫn làm, như khênh cột nhà. Vừa đi vừa nhai trầu, hút thuốc, tán chuyện. Khi nghỉ, đứng ngồi ngổn ngang ngay bên quan tài. Có người nằm lăn ra nói “Mát thật, không bận cứ ngủ ở đây đến tối”. Ông Bổng bảo “Các bố ơi, đi đi còn về nhắm”. Thế là đi. Tôi chống gậy giật lùi trước quan tài theo tục lệ, “cha đưa mẹ đón”. Ông Bổng bảo “Bao giờ tôi chết, đô tùy của tôi toàn dân cờ bạc, cỗ không thịt lợn mà thịt chó”. Cha tôi bảo “Chú ơi, lúc này mà chú đùa à?” Ông Bổng nín bặt, lại khóc “Chị ơi, chị đánh lừa em chị đi… Chị bỏ em chị đi… “. Tôi nghĩ “Sao lại đánh lừa? Chẳng lẽ người chết đều đã đánh lửa người sống cả sao? Bãi tha ma này toàn quân lừa lọc?” Chôn cất xong, mọi người về nhà. Bày ra một lúc hai mươi tám mâm. Nhìn mâm cỗ, tôi thật kính trọng cô Lài. Mâm nào cũng gọi “Lài đâu?” Cô Lài miệng dạ tíu tít, chạy ra bê rượu, bê thịt. Đến tối, cô Lài tắm giặt, mặc quần áo mới ra hương án khóc “Bà ơi, cháu xin lỗi bà, cháu không đưa bà ra đồng… Hôm trước bà thèm canh cua, cháu ngại làm, bà chẳng được ăn… Bây giờ đi chợ, cháu biết mua quà cho ai?… ” Tôi thấy đắng ngắt. Tôi nhớ đã chục năm nay tôi chưa lần nào mua được cho mẹ chiếc bánh hay là gói kẹo. Cô Lài lại khóc “Cháu ở nhà thì bà có chết không bà?” Vợ tôi bảo “Đừng khóc”. Tôi cáu “Cứ để cho cô ấy khóc, đám ma không có tiếng khóc buồn lắm. Nhà mình có ai biết khóc bà cụ thế đâu?” Vợ tôi bảo “Ba mươi hai mâm. Anh phục em tính sát không?” Tôi bảo “Sát”. Ông Bổng bảo “Tôi đi xem giờ. Bà cụ được một cái nhập mộ, hai cái trùng tang, một cái thiên di. Có yểm bùa không?” Cha tôi bảo “Bùa con khỉ. Trong đời mình, tôi chôn ba nghìn người chẳng có người nào thế này”. Ông Bổng bảo “Thế là sướng, “đòm” phát là xong”. Ông giơ một ngón tay trỏ làm hiệu bóp cò. X. Tết năm đó, nhà tôi không mua hoa đào, không gói bánh chưng. Chiều mồng hai, đơn vị cũ của cha tôi cho người về viếng mẹ tôi. Biếu năm trăm đồng. Ông Chưởng, phó của cha tôi bây giờ lên tướng, ra mộ thắp hương. Anh Thanh đại úy cần vụ đi theo rút súng bắn ba phát lên trời. Sau này, trẻ con trong làng kháo bộ đội bắn hai mốt phát đại bác viếng bà Thuấn. Ông Chưởng hỏi cha tôi “Anh muốn về thăm đơn vị dối già không? Tháng năm tập trận. Đơn vị cho xe về đón”. Cha tôi bảo “Được”. Ông Chưởng đi thăm cơ ngơi nhà tôi, có ông Cơ hướng dẫn. Ông Chưởng bảo cha tôi “Cơ ngơi của anh ác thật. Vườn cây, ao cá, chuồng lợn, chuồng gà, biệt thự. Thế là vững tâm”. Cha tôi bảo “Con tôi làm đấy”. Tôi bảo “Đấy là vợ cháu”. Vợ tôi bảo “Cô Lài chứ! ” Cô Lài cười thỏn thẻn, dạo này đầu cứ gật gật liên hồi như bị động kinh “Chả phải”. Cha tôi đùa “Thế thì do mô hình “. Sáng mồng ba, Kim Chi đi xích lô bế con về thăm. Vợ tôi mừng tuổi một nghìn. Cha tôi hỏi “Thằng Tuân có thư từ gì không?” Kim Chi bảo “Không”. Cha tôi bảo “Lỗi ở bác đấy. Tao không biết mày có chửa”. Vợ tôi bảo “Chuyện ấy là thường. Bây giờ làm gì còn có trinh nữ. Con làm ở bệnh viện sản, con biết”. Kim Chi ngượng. Tôi bảo “Đừng nói thế, nhưng mà làm trinh nữ thì mệt thật”. Kim Chi khóc “Anh ơi, đàn bà chúng em nhục lắm. Đẻ con gái ra em cứ nát ruột nát gan”. Vợ tôi bảo “Tôi còn hai con gái cơ”. Tôi bảo “Thế các người tưởng làm đàn ông thì không nhục à?” Cha tôi bảo “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục.. Tâm càng lớn, càng nhục”. Vợ tôi bảo “Nhà mình nói năng như điên khùng cả. Thôi đi ăn. Hôm nay có cô Kim Chi, tôi đãi mỗi người một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên hết”. XI. Gần nhà tôi ở có cậu Khổng, trẻ con gọi là Khổng Tử. Khổng làm ở xí nghiệp nước mắm nhưng lại thích thơ, làm thơ gửi báo Văn nghệ. Khổng hay sang chơi. Khổng bảo “Thơ siêu nhất”. Cậu đọc cho tôi nghe Loócca, Uýtxman v. v… Tôi không thích Khổng, ngờ ngợ cậu ta sang chơi vì một cái gì phiêu lưu còn hơn cả thơ ca nữa. Một bận, thấy trong giường của vợ tôi có một tập thơ chép tay. Vợ tôi bảo “Thơ của cậu Khổng, anh có đọc không?” Tôi lắc đầu. Vợ tôi bảo “Anh già rồi”. Bất giác tôi thoáng rùng mình. Một hôm bận trực cơ quan nên tôi về muộn. Cha tôi đón cổng, ông bảo “Thằng Khổng sang chơi từ chập tối. Nó với vợ mày cứ rúc rích với nhau, bây giờ chưa về, chướng quá”. Tôi bảo “Cha đi ngủ đi, để ý làm gì?” Cha tôi lắc đầu, bỏ đi lên gác. Tôi dắt xe máy ra đường, phóng lang thang khắp phố cho kỳ hết xăng. Tôi dắt xe đến ngồi ở một góc vườn hoa như một tên du thủ du thực. Có một cô mặt đánh phấn đi ngang qua hỏi “Ông anh ơi, có đi chơi không?” Tôi lắc đầu. Khổng có ý tránh mặt tôi. Ông Cơ ghét lắm, một hôm bảo tôi “Cháu đánh nó nhé?” Suýt tôi gật đầu. Lại nghĩ “Thôi”. Tôi vào thư viện mượn thử ít sách. Đọc Loócca, Uýtxman… tôi cứ mơ hồ thấy những nghệ sĩ trác tuyệt là những con người cô đơn khủng khiếp. Bỗng thấy thằng Khổng có lý. Chỉ tức nó đểu. Sao nó không đưa thơ nó cho người khác xem mà lại đưa cho vợ tôi? Cha tôi bảo “Anh nhu nhược. Duyên do là anh đếch sống được một mình”. Tôi bảo “Không phải, cuộc đời nhiều trò đùa lắm”. Cha tôi bảo “Anh cho là trò đùa à?” Tôi bảo “Không phải trò đùa, nhưng cũng không phải nghiêm trọng”. Cha tôi bảo “Sao tôi cứ như lạc loài?” Cơ quan định cử tôi đi công tác phía Nam. Tôi bảo vợ tôi “Anh đi nhé?” Vợ tôi bảo “Đừng đi. Mai anh sửa cửa nhà tắm, cái cửa hỏng rồi. Hôm nọ cái Mi đang tắm, thằng Khổng đi qua định giở trò đểu làm nó hết hồn. Thằng khốn nạn ấy em cấm cửa rồi”. Vợ tôi òa khóc “Em thật có lỗi với anh, với con”. Tôi khó chịu quay đi. Nếu có cái Vi bây giờ thì nó sẽ hỏi tôi rằng “Bố ơi, đấy có phải nước mắt cá sấu không?” XII. Tháng Năm, đơn vị cũ cho xe về đón cha tôi. Anh Thanh đại úy cầm thư của ông Chưởng về. Cha tôi cầm thư run run. Thư viết “… Chúng tôi cần anh, mong anh… nhưng anh đi được thì đi, không ép”. Tôi nghĩ cha tôi không nên đi nữa nhưng nói ra bất tiện. Cha tôi già sụp hẳn đi từ khi về hưu. Hôm nay cầm thư, thấy ông nhanh nhẹn và trẻ trung hẳn. Tôi cũng vui lây. Vợ tôi chuẩn bị đồ đạc cho vào cái sắc du lịch. Cha tôi không nghe, ông bảo “Cho vào ba lô”. Cha tôi đi chào làng nước một lượt, ra cả ngoài mộ mẹ tôi, lại bảo anh Thanh bắn ba phát súng lên trời. Buổi tối cha tôi gọi ông Cơ đến cho hai nghìn, bảo khắc một cái bia đá gửi về Thanh Hóa đánh dấu mộ vợ. Cha tôi lại gọi cô Lài đến bảo “Cháu lấy chồng đi”. Cô Lài òa khóc “Cháu xấu xí lắm, chẳng ai lấy. Lại cả tin nữa”. Cha tôi nghẹn ngào “Con ơi, con không hiểu rằng cả tin chính là sức mạnh để sống hả con?” Tôi cũng không ngờ những điều như thế lại là điềm báo chuyến này cha tôi ra đi không về. Trước khi lên xe, cha tôi lấy trong ba lô ra quyển vở học sinh. Ông đưa cho tôi. Ông bảo “Trong này cha có ghi chép ít điều, con đọc thử xem”. Cái Mi, cái Vi chào ông. Cái Mi hỏi “ông đi ra trận hả ông?” Cha tôi bảo “ừ”. Cái Vi hỏi “Đường ra trận mùa này đẹp lắm có phải không ông?” Cha tôi chửi “Mẹ mày! Láo!” XIII. Cha tôi đi được vài ngày thì ở nhà xảy ra chuyện cười nôn ruột. Số là ông Cơ cùng với ông Bổng vớt bùn dưới ao vợ tôi trả ông Bổng hai trăm đồng một ngày công, cơm nuôi, bỗng thấy một cái đít chum nổi lên. Hai ông hì hục đào, lại thấy một đít chum nữa, ông Bổng đoán chắc các cụ ngày xưa chôn của. Hai ông báo với vợ tôi. Thủy đến xem, cũng lội xuống đào. Rồi cả cô Lài, cả cái Mi, cái Vi. Cả nhà bê bết bùn đất. Vợ tôi bắt phải ngăn ao, lại đi thuê máy bơm Côle về tát nước. Không khí thật nghiêm trang. Ông Bổng thích lắm “Công tao thấy trước, cứ phải chia cho tao rnột chum”. Hì hục một ngày đào được hai cái chum sứt trong chẳng có gì. Ông Bổng bảo ” Chắc còn nữa”. Lại đào. Được thêm một cái chum nữa, cũng vỡ. Cả nhà mệt lả, bụng đói cồn cào. Vợ tôi sai mua bánh mì về ăn lấy sức đào tiếp. Đào gần chục mét thì vớ được cái lọ sành. Cả nhà mừng rỡ, ai cũng đoán vàng. Mở ra trong thấy toàn một chuỗi “Bảo Đại thông báo” bằng đồng đã han rỉ cả. Lại thấy một cái mề đay mủn nát. Ông Bổng bảo “Thôi chết, tao nhớ ra rồi.” Ngày xưa tạo với trùm Nhân ăn trộm ở nhà Hàn Tín, bị đuổi, trùm Nhân vứt cái lọ này xuống ao”. Cả nhà được một mẻ cười nôn ruột. Trùm Nhân là tên ăn trộm khét tiếng ở vùng ngoại ô. Hàn Tín trước kia là lính thuộc địa cho Tây, tham gia phong trào “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc”. Cả hai đã chết mục xác từ thuở nảo thuở nào. Ông Bổng bảo “Không sao, bây giờ cả làng này chết tao cũng đủ tiền đi đò nhét vào miệng họ”. Sáng hôm sau, ngủ dậy thì tôi nghe thấy có tiếng gọi cổng. Tôi ra thấy Khổng đứng ngoài. Tôi nghĩ “Mẹ khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhất của số phận mình”. Khổng bảo “Anh Thuần ơi, anh có điện. Ông cụ mất rồi!” XIV. Điện của ông Chưởng “Thiếu tướng Nguyễn Thuấn, hy sinh khi làm nhiệm vụ hồi… giờ… ngày mai táng tại nghĩa trang liệt sĩ hồi… giờ… ngày” Tôi lặng người. Vợ tôi xếp đặt mọi việc rất nhanh. Tôi ra thuê xe, về nhà đã thấy gọn đâu vào đấy. Vợ tôi bảo “Khóa cửa nhà trên. Ông Cơ ở lại”. Xe đi Cao Bằng theo đường số Một. Đến nơi thì lễ an táng cha tôi cử hành đã được hai tiếng đồng hồ. Ông Chưởng bảo “Chúng tôi có lỗi đối với gia đình”. Tôi bảo “Không phải thế. Đời người có mệnh”. Ông Chưởng bảo “Cha anh là người đáng trọng”. Tôi hỏi “Theo nghi lễ quân đội hả chú”. Ông Chưởng bảo “Cụ ra trận địa, đòi lên chốt”. Tôi bảo ” Cháu hiểu rồi, chú đừng kể nữa”. Tôi khóc, chưa bao giờ tôi khóc như thế. Bây giờ tôi mới hiểu khóc như cha chết là khóc thế nào. Hình như đấy là cái khóc lớn nhất đời một con người. Mộ của cha tôi đặt trong nghĩa trang liệt sĩ. Vợ tôi mang theo máy ảnh bảo chụp mấy kiểu. Hôm sau tôi xin về luôn, ông Chưởng giữ lại nhưng tôi không nghe. Đường về vợ tôi bảo xe đi chậm. Ông Bổng lần đầu mới được đi xa, thích lắm. Ông bảo “Nước mình thật đẹp như tranh. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao phải yêu đất nước. Chứ ở quê ta, dù ngay Hà Nội có văn minh thật, tôi chẳng thấy yêu gì cả”. Vợ tôi bảo “Tại chú quen đấy. ở nơi khác cũng thế, họ lại thấy yêu Hà Nội”. Ông Bổng bảo “Thế là nơi này yêu nơi kia, người này yêu người kia. Tất cả đều đất nước mình, nhân dân mình cả. Vậy thì đất nước muôn năm, nhân dân muôn năm. Hoan hô đèn cù! ” XV. Có lẽ câu chuyện của tôi kết thúc ở đây. Sau đó nếp sống của gia đình tôi trở lại như là trước ngày cha tôi nghỉ hưu. Vợ tôi tiếp tục công việc bình thường. Tôi đã hoàn thành công trình nghiên cứu điện phân. Ông Cơ trở nên ít nói, một phần vì bệnh cô Lài nặng hơn. Lúc rỗi, tôi giở đọc những điều cha tôi ghi chép. Tôi hiểu cha tôi hơn. Trên đây là những sự việc lộn xộn của hơn một năm cha tôi nghỉ hưu mà tôi chép lại. Tôi coi đấy như nén hương thắp nhớ người. Nếu có ai đã có lòng để mắt đọc điều tôi viết, xin lượng thứ cho tôi. Tôi xin cảm tạ. Nguyễn Huy Thiệp Nguồn I. KHÁI NIỆM1. Thuật ngữ bi kịch Thuật ngữ “bi kịch” dùng để chỉ những biến cố xảy ra trên sân khấu, trong phim ảnh, trong tiểu thuyết. Bi kịch theo nghĩa rộng là một tính chất của cuộc sống con người, những gì xảy ra trong đời khi ước mơ khát vọng bị vùi lấp trong hiện thực. “Bi” là cái buồn, cái khổ đau, cái thất vọng của một giá trị chân lý, lý tưởng bị đổ vỡ, cái ước mơ khát vọng cao cả không thể thực hiện do những tác động của khách thể. Bi kịch trong văn học là một thể loại kịch bắt nguồn từ Hy lạp cổ đại mà đỉnh cao là tác giả Sophocle với các vở kịch kinh điển như Qedipus làm vua... Theo Aristotle bi kịch khác với hài kịch ở chỗ kết thúc không vui. Nhân vật bi kịch, là con người ở trên mức bình thường về địa vị và tính cách, phải chịu một sự đổi thay của vận mệnh. Nỗi bất hạnh của nhân vật do sự kết hợp của số phận, những thay đổi về tư tưởng, tình cảm, đời sống kinh tế, tập tục xã hội của hiện thực cuộc sống và cả những sai lầm của cá nhân gây ra. Nhân vật bi kịch là những con người đáng yêu, có ý chí nghị lực, có tâm hồn rộng mở, họ chiến đấu chống lại định mệnh của họ, và cuối cùng phải chấp nhận trong sự bất lực trước thực tại và đi đến những kết thúc bất hạnh. Những tác phẩm kinh điển về bi kịch như Hamlet, Othello, Roméo & Juillet của W. Shakespeare đã trở thành chuẩn mực, kinh điển. Vậy thì bi kịch trên sân khấu ngụ ý một quan điểm nào đó về bản chất và ý nghĩa của kiếp nhân sinh – bi kịch theo nghĩa rộng hơn. Bi kịch trong văn học chuyên chở ý nghĩa bi đát của đời sống và ý thức khốn khổ về sự vĩ đại tiềm tàng trong con người. Cũng như kịch, bi kịch trong văn xuôi thể hiện những xung đột, mâu thuẫn giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa ý thức và hiện thực trong đời sống xã hội. Chuyện người thiếu phụ Nam Xương của Nguyễn Dữ, Truyện Kiều - Nguyễn Du ít nhiều đều thể hiện tính chất của bi kịch. Tuy nhiên trong tính quy phạm với kết thúc có hậu của văn học trung đại ít nhiều đã hạn chế giá trị của bi kịch. Trong truyện ngắn hiện đại Việt Nam từ sau 1975 tính chất bi kịch trong tác phẩm vẫn tồn tại nhất là bi kịch của người lính trở về sau chiến tranh. Ánh hào quang của chiến thắng chỉ còn là ánh hồi quang, họ trở nên lạc lõng trong thời kỳ kinh tế thị trường... Quá khứ và hiện tại xung đột dữ dội trong nội tâm của nhân vật tạo cho sự hòa nhập trở nên khó khăn và là một mâu thuẫn xung đột bên trong của nhân vật. Nhân vật Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Lực trong Cỏ lau, Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu, ông Thuấn trong Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp... Các nhân vật hiện đại thường là những con người bình thường, có hiểu biết, có lý tưởng sống, nhưng vẫn không thoát khỏi xung đột, dằn xé nội tâm trong cuộc sống đời Vấn đề cá nhân con người trong văn học sau 1975 Trong lịch sử xã hội loài người, sự phát triển ý thức cá nhân là dấu hiệu của sự phát triển của ý thức con người về vai trò chủ thể của mình trong mối quan hệ với bản thân, với xã hội, với tự nhiên. Trong văn học, sự vận động và phát triển của một nền văn học được thể hiện ở trình độ chiếm lĩnh con người, sự khám phá và lý giải về đời sống cá nhân, về cá tính là một vấn đề có vị trí vô cùng quan trọng. Như vậy con người cá nhân tồn tại từ những nhu cầu bản năng tự nhiên đến những nhu cầu tinh thần, hướng tới những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, giá trị chân lý... gắn với sự tồn tại những cá tính, những tư chất riêng, năng lực phẩm chất riêng, nhân cách riêng để khẳng định sự hiện hữu của chính cá nhân đó. Con người là con người của xã hội nên bao giờ cũng gắn với môi trường giai cấp, xã hội cụ thể và mỗi cá nhân là một thành viên trong cộng đồng nên ý thức cá nhân bao giờ cũng gắn với ý thức xã hội. Nói đến cá nhân là nói đến những nhu cầu vật chất cho sự tồn tại một con người, những gía trị tinh thần như tự do, hạnh phúc, nhân phẩm, lương tri... tạo ra sự hài hòa trong mối quan hệ xã hội. Văn học Việt Nam sau năm 1975, các nhà văn đã chú ý đến con người cá nhân, đời sống riêng tư, thế giới riêng, năng lực riêng của mỗi người. Chiến tranh đã kết thúc. Đất nước, quê hương, xã hội, con người biết bao thay đổi và mỗi cá nhân được nhận thức, vận động để hoà nhập vào cuộc sống mới nhưng không bị đánh mất mình trong dòng chảy của đời sống. Văn học những năm 1980, phản ánh sự dằn xé trong nội tâm con người giữa hai dòng thời gian quá khứ và hiện tại trong thế giới nội tâm, qua miền ý thức đẩy bí ẩn, phức NGUYỄN HUY THIỆP VỚI TƯỚNG VỀ HƯU1. Vài nét về Nguyễn Huy Thiệp Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950, quê quán Thanh Trì, Hà Nội, tốt nghiệp khoa Sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1970, dạy học ở Tây Bắc đến năm 1980, sau đó chuyển công tác về Cục xuất bản của Bộ Giáo dục & Đào tạo, rồi chuyển sang công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ rồi nghỉ việc để chuyên viết văn. Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam với vài truyện ngắn đăng trên Báo Văn nghệ năm 1986. Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp in dấu ấn khá đậm nét về nông thôn và những người lao động. Sở trường của ông là truyện ngắn mảng đề tài đa dạng gồm lịch sử và văn học, hơi hướng huyền thoại và cổ tích, xã hội Việt Nam đương đại, xã hội làng quê và những người lao động. Tướng về hưu lần đầu được in trên tuần báo Văn Nghệ số 20 /6/1987 của Hội Nhà văn Việt Nam. Nó lập tức trở thành một hiện tượng văn học và được nhà xuất bản Trẻ tuyển chọn in trong tập truyện ngắn với tựa đề Tướng về hưu. Nhà xuất bản Văn hoá, năm 1989 cũng cho ra một tập gồm 11 truyện lấy tên là Những ngọn gió Hua Tát... Tuy mới xuất hiện nhưng Tướng về hưu được xem như một truyện ngắn đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Về sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, đặc biệt là những tác phẩm viết về đề tài lịch sử và cả một vài tác phẩm ông viết sau này mang xu hướng rẻ rúng, tầm thường theo lợi nhuận, nhưng những thành công của Nguyễn Huy Thiệp với Chảy đi sông ơi, Những người thợ xẻ và đặc biệt là Tướng về hưu đã đóng góp những nét chấm phá trong văn học đương đại Việt Bi kịch cá nhân con người trong Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp Vương Trí Nhàn có nhận xét về Tướng về hưu “Nhắc tới anh, người ta nhớ Tướng về hưu gây xôn xao một dạo, bởi cách viết rạch ròi, trần trụi... Bằng một lối kể thâm trầm của một kẻ vừa trải đời, vừa chán đời và không còn những hy vọng dễ dãi vào đời, trong Tướng về hưu, tác giả vẽ ra một khung cảnh ở đó, nếp sống thực dụng lan tràn, trở thành một thói quen; con người lì lợm lâu ngày đến mức mất hết cảm giác về sự lì lợm của chính mình; cái tốt bé nhỏ như một cái gì trớ trêu rơi rớt lại không được việc gì; lương tri vẫn còn trong mỗi người nhưng nó chỉ đủ sức làm cho người ta nghẹn ngào khi phải đối mặt với những cảnh tha hóa, bần cùng...”. Bi kịch cá nhân con người bắt đầu khi thiếu tướng Nguyễn Thuấn bình lặng trở lại cuộc sống đời thường ở cái tuổi “cổ lai hy” khi “việc lớn trong đời đã làm xong rồi!” kiểu “Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo”. Nhưng tướng Thuấn không được “Thảnh thơi thơ túi rượu bầu” của Nguyễn Công Trứ mà lại nặng trĩu mối u hoài khi cảm thấy mình như lạc loài trong ngôi nhà của mình. Ông không mang về ánh hào quang của người lính suốt cả đời chinh chiến, không dằn vặt, hoài niệm về chiến tranh như Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh hay nỗi đau dằn xé của Lực trong Cỏ Lau của Nguyễn Minh Châu khi ngày trở về thì người vợ thân yêu đã có chồng khác. Ông trở về sống bên người những người thân của mình. Thế nhưng tại trong ngôi nhà của mình, ông cảm thấy lạc loài, không hòa nhập được. Phần đông thế giới nhân vật trong Tướng về hưu đều là những con người cô đơn. Mặc dù họ sống trong ngôi biệt thự khá sang trọng với “tam đại đồng đường”, đầy đủ về đời sống vật chất nhưng mỗi con người là một thế giới riêng, không hòa nhập được vào cuộc sống chung của đại gia đình. Một bà vợ hơn ông sáu tuổi đã bị lú lẫn, một anh con trai là kỹ sư nhưng nhu nhược, cô con dâu bác sĩ phụ sản – con người của chủ nghĩa thực dụng, cùng hai đứa cháu nội lúc nào cũng bận bịu với học ngoại ngữ, học thanh nhạc. Bi kịch cá nhân con người trong Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp chủ yếu là bi kịch con người lý tưởng bình đẳng và sự tha hóa trong nếp sống thực dụng của nền kinh tế thị trường. Tướng Thuấn là không mang biểu tượng của một thời oanh liệt, của những năm tháng lặn lội ở chiến trường. Nguyễn Huy Thiệp không miêu tả ông trở về với những huân huy chương, ông trở về có phần xa lạ đối với mọi người trong nhà. Sự trở về của ông có phần làm xáo trộn nếp sống của gia đình mà cô con dâu ông điều hành và quản lý. Cái nề nếp vốn đã ổn định, trật tự từ lâu theo lối sống thực dụng bỗng bị khuấy đảo. Trước tiên là khách khứa đến thăm nhiều. Nhưng đối với cô con dâu thì điều đó “Không thể thế được”. Đó là lời chào đón của người con dâu khi bố chồng trở về trên chính ngôi nhà của ông. Và cũng chính cô đã nhận ra ngay mặt trái của sự thăm viếng là nhờ vả, là lợi dụng vào thanh danh của viên tướng “Đừng mừng... họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá sức”. Một cái nhìn tinh tế của đôi mắt thục dụng trong hiện thực cuộc sống mà người tướng già không kịp nhận ra. Có thể ở nơi chiến trường ông đã đi qua những cuộc chiến tranh, con người và con người gắn kết nhau trong tình đồng đội, ít có vụ lợi cá nhân. Nhưng khổ nỗi nơi chiến địa, người ta hy sinh, san sẻ cho nhau từ vật chất lẫn tinh thần, còn cuộc sống xã hội thì khác hẳn. Chén cơm manh áo đời thường, sự ti tiện ích kỷ cá nhân. Con người giành giựt nhau trong đời sống kinh tế. Ông trở về trong ngỡ ngàng của đứa con trai dù rằng đã biết trước, trong sự xa lạ của cô con dâu trí thức, nhưng rất thực dụng và cả hai đứa cháu nội gái. Về hưu không theo kịp với nhịp sống hiện đại, ông bị lạc lõng trước cuộc sống bộn bề, phức tạp, nhố nhăng trong một xã hội đang chuyển mình từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Câu nói "Sao tôi cứ như lạc loài" dường như chứng minh cho nhận định trên. Ánh hào quang duy nhất theo ông là "Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi của cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng", hoặc "Cha là tướng. Về hưu cha vẫn là tướng. Cha chỉ huy. Cha mà làm lính thì sẽ loạn cờ". Thế nhưng chính ông cũng thốt lên khi trả lời với ông Cơ người giúp việc nhà “Tôi có tiếng gì mà mang?”. Ông trả lời trong tiếng thở dài nghe có phần ngao ngán. Danh tiếng của một con người, danh tiếng của viên tư lệnh, cả quá khứ vàng son ấy, và ngay cả địa vị người bố trong gia đình vốn có truyền thống Nho học cũng nhạt nhòa trong quyền năng của đồng tiên mà cô con dâu thao túng. Một điều đau buồn của con người trong chiến tranh, tướng Thuấn sinh ra trong một gia đình Nho giáo, nhưng bất hạnh thay, khi ông chào đời được ít ngày thì mẹ ông mất. Sống với bà mẹ kế khắc nghiệt với nhiều cay đắng. Năm mười hai tuổi, ông trốn nhà ra đi rồi vào bộ đội, ít khi về nhà. Ngay cả khi lấy vợ trong cuộc hôn nhân không do tình yêu nhưng vẫn đầy trách nhiệm, rồi sinh con, rồi tiếp tục biền biệt trong súng đạn chiến tranh. Hạnh phúc riêng tư ngắn ngủi trong những lần thỉnh thoảng ghé về nhà, hay những lá thư đều rất ngắn ngủi. Nhưng dưới dòng chữ ấy “ẩn chứa nhiều tình thương cùng âu lo”. Việc lớn đã xong trở về vun quén hạnh phúc gia đình trong những ngày còn lại bên cạnh những người thân yêu. Song chính ngay tại ngôi nhà của ông đã xây dựng tám năm trước khi về hưu, ông đăm chiêu khi muốn ở một phòng dưới nhà ngang như người vợ lú lẫn của ông nhưng không được. Ông cũng đã bứt rứt khi cô con dâu sắp xếp cho người mẹ chồng ăn riêng, ở riêng vì “tại mẹ lẫn” của tuổi già. Người phụ nữ mà có lẽ suốt cả đời tần tảo lầm lũi chăm lo gia đình mà suốt đời chỉ là cái bóng nhạt nhẽo. Là vị tướng đầy quyền lực, chỉ huy ngoài mặt trận cả hàng ngàn, vạn người, nhưng chỉ trong gia đình bé nhỏ ấy với mấy người thì ông lại trở nên thụ động, lệ thuộc. Chỉ trong ba tháng từ ngày về hưu, một con người năng động trở nên thụ động, lầm lũi, có điều gì đó nghẹn khuất trong lòng tướng Thuấn và trở thành nỗi nhớ rồi là nỗi nhục. Sự cô đơn của tướng Thuấn chưa hẳn là nỗi buồn nhớ một cái gì đã thuộc về quá khứ, ông trở thành cô đơn trong chính ngôi nhà mình. Viên tướng từng hỏi con trai khi mới về hưu "Nghỉ rồi, cha làm gì?". Thuần khuyên bố viết hồi ký nhưng ông từ chối, còn Thuỷ gợi ý "Cha nuôi vẹt xem" thì bị ông phản ứng ngay "Kiếm tiền à?". Hình như đồng tiền không nằm trong suy nghĩ của ông. Nhưng oái oăm thay, đồng tiển đã là lẽ sống của xã hội. Chính vì thế ông không thể chấp nhận việc cô con dâu, một bác sĩ sản khoa hàng ngày đem các nhau thai nhi bỏ đi, cho vào phích đá đem về nấu lên cho chó, cho lợn ăn chóng lớn để bán lấy tiền. Ông đã nhìn thấy những mẫu thai nhi bé xíu, có cả những ngón tay nhỏ hồng hồng trong nồi cám. Đau đớn quá, ông đã bật khóc. Nước mắt của vị tướng về hưu, người đã từng chôn cất ba nghìn người lại bật khóc vì những sinh linh, những hình hài chưa kịp hoàn chỉnh của con người đã trở thành thực phẩm cho loài chó, lợn, và chính loài chó lợn ấy lại nuôi sống con người mang danh phận trí thức. Đúng là bi kịch. Ông đã thốt lên “Khốn nạn ! Tao không cần sự giàu có này”. Không phải ông không cần tiền, nhưng kiếm tiền đến như thế thì đã là một tội ác. Sự lạnh lùng của nền kinh tế thị trường với thế lực đồng tiền thành tiêu chí đã tạo cho Thủy lạnh lùng đến kinh tởm. Cô bảo ông Cơ “Sao không cho vào máy xát?”. Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng ngôn ngữ đặc quánh để diễn tả thái độ, hành động, suy nghĩ của con người, của sự đen tối, của giá trị đồng tiền. Chả trách khi người vợ ông chết, ông Bổng cạy miệng bà vợ ông cho vào chín đồng tiền chinh Khải Định “để đi đò” làm đứa cháu gái mười hai tuổi ngây ngô nói lên những lời đầy triết lý đau xót “Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố?… Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần”. Thế giới con người trong bi kịch của Nguyễn Huy Thiệp còn là những toan tính nhỏ nhen ích kỷ của nếp sống thực dụng. Một lối sống phi đạo đức, thiếu nhân tính đã len vào tâm hồn sơ cứng của một bộ phận người mà vẫn tồn tại, thậm chí còn có thế lực trong gia đình. Ngay cả vấn đề tình yêu, hôn nhân. Tướng Thuần đã hụt hẳng biết bao trong ngày cưới của Kim Chi với đứa cháu lưu manh của ông. Cái diễn văn chuẩn bị công phu trong ngày lễ trọng đại của đời người hóa nên thừa thải, lạc lõng giữa cái bát nháo, ô hợp rất thản nhiên, rất đời của bọn du thủ du thực. Những bài hát tây ta lộn xộn như một mở hổ lốn. Cô cháu dâu là một cô giáo mầm non, con gái ông vụ phó lại sinh sau đám cưới mười ngày. Cô con dâu là bác sĩ sản khoa đã nhận định “Chuyện ấy là chuyện thường. Bây giờ làm gì còn có trinh nữ. Con làm ở bệnh viện sản con biết”. “Chữ trinh đáng giá nghìn vàng” của cụ Tố Như xem ra không có giá trị với thì hiện tại. Con người sống bằng bản năng, bằng sự thõa mãn dục vọng, xem thường giá trị đạo lý. Người ta quan hệ rồi lại từ chối trách nhiệm, lại phá thai, lại quan hệ… cái vòng lẫn quẫn ấy đã cung cấp nguồn dinh dưỡng cho chó, lợn… Đó có cũng là bi kịch con người. Cái khéo léo của nhà văn là đặt bi kịch trong hài kịch, cái hài trong cái bi. Nói như cụ Tố Như thì “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, viên tướng đã cay đắng thốt lên “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục. Tâm càng lớn càng nhục”, thì cô con dâu đã khẳng khái trả lời “Nhà mình nói năng như điên khùng cả. Thôi ăn đi. Hôm nay có cô Kim Chi, tôi đãi mỗi người một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên hết”. Cái “tâm”, một khái niệm đạo đức được biến thành lương thực thực phẩm. Nói đến cái tâm thì lại bị xem là nói năng điên khùng thì quả buồn cười thật, là bi kịch mất rồi. Ngay cả chủ nghĩa bình quân của viên tướng khi cho mỗi người bốn mét vải mà theo ông là lẽ sống thì cô con dâu đã khéo đùa “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại”. Hay trong lời than khóc của ông Bổng, một con người tán tận lương tâm không đáng được gọi là người “Bao giờ tôi chết, đô tùy của tôi troàn dân cờ bạc, cỗ không thịt lợn mà là thịt chó”. Vậy thì cái đám tang ấy trở thành đám nhậu đúng nghĩa. Ngay cả trong đám tang, ông Bổng cũng đã lừa lấy thắng cháu bốn nghìn đồng mà còn được cô cháu dâu nhận xét “Thôi, coi như trả công. Lão ấy tốt nhưng nghèo”. Có điều gì đó đảo lộn mọi giá trị luân lý. Tính bi hài kịch của tác phẩm cò thể hiện ở ngay lời nói nhận xét củ bà lào lú lẫn. Ông Bổng một con người mà xã hội xa lánh bởi bản chất lưu manh, lỗ mãng, phi nhân bất nghĩa và chỉ duy có người chị dâu trong lúc sắp chết bảo ông Bổng “là người” đã khiến ông xúc động khóc òa lên “Thế là chị thương em nhất. Cả làng gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân con ông Bổng gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người”. Có một điều khá thú vị, khi nhà văn để cho cậu Khổng mà trẻ con thường gọi là Khổng Tử công tác tại xí nghiệp nước mắm mà lại thích làm thơ gởi báo Văn nghệ. Và khôi hài hơn nữa là cũng đã làm rung động trái tim người đàn bà sắt đá, lạnh lùng. Họ cứ “rúc rích với nhau” ngay trong căn nhà, trước sự khó chịu của viên tướng, ông Cơ, và người chồng nhu nhược. May mà bi kịch không diễn ra mà chỉ mới là lớp hài kịch buông màn khá nhanh khi cô con dâu phát hiện cậu Khổng suýt làm điều xằng bậy với đứa con gái mười bốn tuổi của cô. Nhân vật Thủy cũng là một bi kịch nội tâm. Trong bên ngoài vẻ lạnh lùng đến tàn nhẫn ấy thế mà cũng rung động trước cậu Khổng. Phải chăng cô vẫn có cái khao khát, lãng mạn bị chìm khuất trong đồng tiền. Hay là Thủy dự định vào cuộc phiêu lưu mới mà con người là một trò đùa như Thuần đã nói “Cuộc đời còn nhiều trò đùa lắm”. Khổ nỗi người ta cũng có thể đem hạnh phúc làm trò đùa thì thật quá đáng. Nhưng màn hài kịch cười ra nước mắt chính là việc lão Bổng phát hiện cái chum trong đáy ao khiến cho cả nhà hì hục đào bới be bét bùn đất, cứ ngỡ là chum vàng để rồi cuối cùng mới nhận ra đó là cái chum mà lão Bổng cùng Trùm Nhân đã ăn trộm nhà Hàn Tín, bị đuổi, vứt xuống ao từ đời nào, khiến cho cả nhà lại một phen cười nôn ruột. Không có vàng thì có tiền chinh. Lão Bổng đùa mai mỉa “Không sao, bây giờ cả làng này chết tao cũng đủ tiền đi đò nhét vào miệng họ”. Đúng là nếp sống thực dụng ăn sâu vào xương tủy, “lành làm gáo, vỡ làm mui”, chẳng bỏ sót điều gì. Đem chủ nghĩa bình quân, mọi người cùng làm, mọi người cùng hưởng ở chiến trường về áp dụng trong gia đình đã gặp trở ngại. Tướng Thuấn là người độ lượng và nhân hậu. Ngay khi trở về ông chia cho mọi người bốn mét vải lính. Cả hai người giúp việc cũng được phần như mọi người. Bình quân “Đấy là lẽ sống” của ông. Thậm chí khi thấy ông Cơ và cô Lài, những con người chân chất đáng thương kia phải làm lụng vất vả trong ngôi nhà, ông đã toan phụ giúp nhưng cô con dâu không đồng ý. Sự phân định đẳng cấp xã hội, đồng tiền định vị chủ - tớ rạch ròi. Và cũng chính ông đã tự nhận khi nói với cô Lài “Con ơi, con không hiểu rằng cả tin chính là sức mạnh để sống hả con?”. Nhưng ý tưởng đẹp đẽ về sự công bằng ấy đã bị cô con dâu biến thành trò cười cho mọi người “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại”. Lời cảnh tĩnh nhẹ nhàng mà thâm thúy. Cái cuộc sống vốn đa dạng đa diện, đầy những mâu thuẫn của cuộc đời, của nền kinh tế thị trường khi giá trị đồng tiền làm thước đo cuộc sống. Chính cô con dâu làm bác sĩ ấy đã mỗi ngày lấy nhau thai về cho heo và chó becgie ăn chóng lớn để kinh doanh. Điều đó năm ngoài suy nghĩ của Tướng Thuấn. Tuy trong đời ông đã từng chôn cất ba nghìn người. Nhưng đó là những con người chết cho lý tưởng. Ông từng chia đều vải lính cho cả nhà, muốn dọn xuống nhà ngang ở với bà vợ già mất trí nhớ, cho tiền cha con ông Cơ về Thanh Hoá xây mộ, cho ông cơ nửa lạng cao, cô Lài mảnh lụa hoa của Ấn Độ mà ông vụ phó tặng cho ông. Đó là sự đồng cảm với những người lao động lam lũ, vất vả. Chỗ dựa gần gũi nhất với ông trong gia đình là ông Cơ và cô Lài. Nhưng họ chỉ là những người làm công, những người nghèo khổ đáng thương. Đọc Tướng về hưu, Đặng Anh Đào đánh giá “Tử và sinh, tình yêu và cái chết, đám cưới và đám ma… Một truyện ngắn mà đã dựng lại cả sơ đồ của tiểu thuyết và truyện kể từ khi ra đời. Chuyện nuôi chó và nuôi vẹt, vấn đề “trinh nữ” trong xã hội này, thế nào là đạo đức và bóc lột, một cô gái dở hơi, những lá thư “giới thiệu”, trí thức hay lao động chân tay, cuộc sống làng xã hay sự cô đơn… Tất cả những chuyện đó đều là những chuyện nhỏ nhặt, không phải là phổ biến, nhiều khi rất độc đáo cả những cái đít chum, cả thuốc lá galăng nữa nhưng đều là những tín hiệu thức tỉnh sự chú ý của người đọc. Chúng nhấp nháy báo hiệu một điều gì đó, khi từ miệng một đứa trẻ thốt ra cái câu “Có phải ngậm miệng ăn tiền không hở bố?” Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, W. Shakespeare trong vở kịch Hamlet đã đưa ra khái niệm triết học “To be or not to be” tồn tại hay không tồn tại. Viên tướng tồn tại trong ngôi nhà chính mình mà như cái bóng. Bởi lẽ mọi việc đều theo sự sắp đặt của cô con dâu. Ngay cả người chồng cũng chỉ là con người nhu nhược phụ thuộc vào vợ. như viên tướng đã nhận định về con trai độc nhất của mình “Anh nhu nhược. Duyên do là anh đếch sống được một mình”. Bản chất con người trí thức ấy bị lệ thuộc, nhất nhất mọi việc đều phải hỏi ý kiến vợ. Ngay cả đám tang mẹ anh, anh cũng không dám quyết định đến nỗi con người lưu manh táo tợn như ông Bổng cũng phải thốt lên “khác máu tanh lòng”. Thế nhưng tướng Thuấn làm được điều gì trong ngôi nhà ấy. Ông có thật sự tồn tại hay không? Có mà như không có. Suốt thời gian ấy, ông cứ như tù túng trong ngôi nhà chính mình. "Cha tôi sụp hẳn đi từ khi về hưu. Hôm nay cầm thư, thấy ông nhanh nhẹn và trẻ trung hẳn". Thế giới của tướng Thuấn là thế giới của chiến tranh, của quá khứ đã lùi xa Để thoát khỏi nỗi cô đơn "Sao tôi cứ như lạc loài", ông háo hức trở lại đơn vị cũ. Và đâu biết rằng đó cũng là định mệnh. Và ông hy sinh trên đường lên chốt biên giới. Sự ra đi của tướng Thuấn mang nét bi tráng của người anh hung, cái chết đến với ông đã được dư báo trước, và nó dường như là điều tất yếu sẽ xảy ra với những người trung thực nhưng lại tụt hậu với thời cuộc. Nói như lão Bổng “Mỗi lính tráng các anh, “dòm” phát là sướng”, hay “Thế là sướng, “đòm” phát là xong”. Cái chết nhẹ tựa lông hồng, mới sống đó rồi ra đi đó. Nguyễn Huy Thiệp đưa ra khái niệm chết “sướng” cũng là một nét độc đáo. “Cuộc sống càng khắc nghiệt, hiện thực càng ghê gớm, miếng ăn manh áo trở thành vấn đề riết róng thì văn học càng phải nâng đỡ con người ta, nó đòi hỏi trí tưởng tượng, đòi hỏi con người phải bứt phá” Nguyễn Thị Minh Thái. Sự bứt phá của nhà văn ở điểm nhìn thấy được những hạn chế những mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tha hóa một tầng lớp xả hội cuốn theo đồng tiền. Nguyễn Huy Thiệp đã tìm thấy những cái hữu hình lẫn vô hình, cái mâu thuẫn giữa chân giá trị và cái giả dối cứ đan xen nhau, nếu không có đôi mắt tinh tường khó phân biệt chân giả. Ngay cả ông Bổng cũng có lúc khóc như một đứa trẻ khi được coi “là người”, cái con người đã bị lãng quên từ lâu bởi những toan tính thấp hèn, bởi sự táng tận lương tâm, nhưng cũng có lúc ông nghĩ đến huyết thống học hàng “Quân trí thức khốn nạn ! Rẻ dân lao động ! Nể bố nó, không tôi cạch cửa!”. Bi kịch trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp vừa xót xa, vừa ngậm ngùi, vừa bùng cháy dữ dội. Những truyện ngắn Chảy đi sông ơi! Với cái chết của Thắm “Khốn nạn ! Nhà Thắm cứu được không biết bao nhiêu người ở khúc sông này… Thế mà cuối cùng nó lại chết đuối mà không ai cứu…”. Hay trong truyện ngắn Cún “Cả cuộc đời ngắn ngủi của ông chỉ có độc nhất một khát vọng thành người thế mà không được…”. Những tác phẩm Muối của rừng, Những người thợ xẻ, Con gái thủy thần… tạo được tiếng vang trong những cuối thập niên 80 của thế kỷ XX. Nói như Vương Chí Nhàn “Nếu có một thứ “quả bóng vàng” hay là “cây bút vàng” dành để tặng cho các cây bút xuất sắc hàng năm, thì trong những năm 1987 và nửa đầu năm 1988 – người xứng đáng được giải trong văn xuôi ta, có lẽ là Nguyễn Huy Thiệp”.3. Nghệ thuật trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Mỗi nhà văn sáng tạo ngôn từ để trở thành quy luật ngữ pháp riêng, giọng điệu riêng, tính cách riêng. Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng những câu chữ gãy gọn, súc tích, đa phần là câu đơn với giọng kể chắt lọc. Hầu như nhà văn ít sử dụng đối thoại nên giọng kể đôi lúc trở nên khô cứng nhưng vẫn đủ uy lực để khắc sâu trong tâm trí người đọc về những nhân vật, về những số phận bi kịch cá nhân con người. Hơi thở văn chương của Nguyễn Huy Thiệp có chút gì bất cần, có chút gì kiêu bạc lẫn tàn nhẫn và đắng cay. Có những cái uyên bác trong sự dung tục, cái nhẹ nhàng mềm mại trong cái lạnh lùng, hằn học, chua chát. Tính đa âm, đa sắc trong ngôn ngữ truyện phản ánh tích cách mạnh mẽ đa diện của hiện thực cuộc sống. Và mỗi truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp như muốn tự phác họa những bản chất tiềm ẩn trong con người, mỗi tác phẩm đã trở thành bức chân dung tự KẾT LUẬN Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp đã khắc họa thân phận con người trong xã hội sau chiến tranh, khi mà những giá trị chuẩn mực đạo lý đã thay đổi theo sức mạnh của nền kinh tế thị trường. Chính vì thế, nhà nghiên cứu văn học người Australia Greg Lockhart đã khẳng định "Nguyễn Huy Thiệp đã đóng góp cho văn học thế giới không chỉ về số phận riêng lẻ của một con người, mà của cả dân tộc, rộng ra, của cả thế giới”.Tướng về hưu là đỉnh cao tạo nên thế đứng vững vàng cho Nguyễn Huy Thiệp trong thế giới văn Văn ThànhTài liệu tham khảoNguyễn Văn Kha, Con người cá nhân trong truyện Việt Nam từ 1975 đến 1990, nguồn googleVương Chí Nhàn – Nguyễn Huy Thiệp, nguồn google,comPhạm Phú Phong, Giọng điệu văn chương Nguyễn Huy Thiệp, tạp chí Sông Hương, Thị Minh Thái, Nguyễn Huy Thiệp “Tôi sống ảo, sống trong mộng mị”, Vietnamnet, 20/7/ tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nhà xuất bản Phụ nữ, 2001. Anh Ba Đua gần đây bỗng gây sóng gió trên mạng xã hội khi là người trực tiếp ký quyết định cả gan “điều chỉnh” quyết định 367 của Thủ tướng Võ Văn Kiệt và ghi trong Điều 2 của QĐ 6565 như thế này “QĐ này thay thế QĐ 367 của Thủ tướng”, đẩy người dân Thủ Thiêm vào cảnh mất đất hơn chục năm nay. Cái “chòi” này chắc chỉ là một phần nhỏ tài sản của anh. Thời đương chức, anh Ba Đua nổi tiếng là người trong sạch. Giờ về hưu, anh ấy sống điềm đạm trong căn biệtthự này. Ngày ngày, anh ấy tập thể dục, dưỡng sức khỏe, uống nước suối. Nhưng hiếm thấy anh vừa đi vừa cắn bánh mì như thời còn đương chức. Hành động “động trời” của Nguyễn Văn Đua đẩy hàng ngàn dân Thủ Thiêm vào cảnh mất đất, nhà tan. Ngày 27-12-2005, Phó Chủ tịch UBND Nguyễn Văn Đua đã ký QĐ 6565 phê duyệt điều chỉnh quy hoạch khu trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm. Ông Nguyễn Văn Đua không chỉ cả gan “điều chỉnh” quyết định 367 của Thủ tướng Võ Văn Kiệt mà còn dám ghi trong Điều 2 của QĐ 6565 như thế này “QĐ này thay thế QĐ 367 của Thủ tướng”. Chuyện thật mà ai nghe cũng phải giật mình Quyết định của thành phố thay thế Quyết định của Thủ tướng? Quả nhiên chỉ có UBND cụ thể là ông Nguyễn Văn Đua mới dám làm điều phi lý, ngược đời như vậy. Vì sao không ai dám hé răng tố giác việc làm sai trái nghiêm trọng của ông Đua? Vì sao UBND dám làm những chuyện kinh thiên động địa, vượt mặt Thủ tướng như vậy? Một cái chữ ký đem lại cho “nhóm lợi ích” hàng nghìn tỷ đồng bất chính thì cả hành động liều lĩnh là điều dễ hiểu, lẽ phàm “đa kim ngân phá luật lệ” xưa nay đã trở thành quy luật. UBND một tay che cả bầu trời, vì thế mới có chuyện “không tìm ra” tấm bản đồ 1/5000 kèm theo quyết định 367 của Thủ tướng chính phủ ký năm 1996. Chỉ một hành động của ông Ba Đua đã khiến hàng trăm gia đình người dân ở Thủ Thiêm vào cảnh mất đất, uất hận 3 chữ “không tìm ra” cho thấy suốt 15 năm các “lãnh chúa” Sài Gòn đã chẳng xem cái bản đồ 1/5000 ấy ra gì, mặc sức bóp méo, vẽ vời nhằm cướp đất giao cho các công ty BĐS để chia nhau hàng trăm nghìn tỷ siêu lợi nhuận. Tiền mà nhóm lợi ích này kiếm được còn dễ hơn mafia buôn ma túy, thuốc phiện. Quyết định 6565 của Nguyên Phó Chủ tịch Nguyễn Văn Đua tác hại như thế nào? Theo bản đồ 1/5000 của quyết định 367 năm 1996, Toàn bộ Thủ Thiêm chỉ có một khu nhà ở cao cấp ở phía bắc bán đảo và khu tái định cư, dọc đại lộ Đông – Tây là các cao ốc 30-100 tầng. Số lượng và diện tích nhà cao tầng ở Thủ Thiêm sau khi có Quyết định 6565 do ông Nguyễn Văn Đua ký đã tăng lên gấp bội so với quyết định 367 của Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký năm 1996. Sau này, sẽ mọc lên cái Tháp Empire City 86 tầng trong Khu Lõi trung tâm của Thủ Thiêm, gần nó là cả một rừng nhà cao tầng khác, tất cả là hệ quả của “điều chỉnh” qui hoạch Thủ Thiêm. Cũng từ việc “điều chỉnh” qui hoạch Thủ Thiêm mà hàng nghìn hộ dân bị thu hồi đất oan ức, chỉ được nhận đền bù với giá rẻ mạt, siêu lợi nhuận lọt vào tay bọn cướp đất. Hàng trăm dân oan xót của đã dìu dắt nhau ra Trụ sở tiếp dân của TTCP ở Hà Nội khiếu kiện nhiều năm ròng rã, mà cho đến nay vẫn chưa được giải quyết. Nói tóm lại, hành động “vượt mặt” của Nguyễn Văn Đua ký “điều chỉnh” qui hoạch Thủ Thiêm, cho xây nhà cao tầng bừa bãi trên vùng đất yếu và thấp không chỉ phản lại khoa học qui hoạch kiến trúc đô thị lớn, mà tác hại của việc này là không thể cân đo đong đếm được. Phá nát lá phổi, lá gan của Thành phố, để lại mối nguy hiểm cho tương lai đối diện hiểm họa sụt lún, ngập lụt chỉ vì đồng tiền dơ bẩn. Nguyễn Văn Đua…và nhiều tay cộm cán khác đã bị nêu tên, nhưng chưa đủ. Còn rất nhiều quan tham dính vào đại án đất Thủ Thiêm sắp bị lộ. Ăn đất thì phải ngồi tù, chỉ có thể là như vậy. Theo Autoxe Sáng nay đọc báo mới biết một trong những nhà văn quan trọng nhứt sau 1975 Nguyễn Huy Thiệp qua đời ở tuổi 71. Ông là tác giả của cuốn tiểu thuyết Tướng về hưu’ 1988, từng nổi tiếng một thời và gây ra nhiều tranh cãi kịch liệt. Tôi nhớ đến nhà văn là qua cuốn tiểu thuyết đó. Thời đó giữa thập niên 1980s, những người ở hải ngoại như tôi rất khó đọc được những tác phẩm văn học từ Việt Nam. Lí do là cấm vận, là thù hận cao ngất, nên các tác phẩm từ Việt Nam không được chào đón ở ngoài này, mà chỉ có một số ít mê văn học tìm đọc mà thôi. Mà, các tác phẩm gọi là văn học’ thời đó cho oai, chớ chẳng có gì là văn học cả, mà toàn là tuyên truyền. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp 1950 – 2021. Ông được sanh ra ở Thái Nguyên, nhưng quê gốc ở Thanh Trì – Hà Nội. Tuy nhiên, sự ra đời của Tướng về hưu’ làm thay đổi nhận thức của vài người ở hải ngoại. Hoá ra, trong nước vẫn có người sáng tác không theo cái motif và framework có sẵn. Người đó là Nguyễn Huy Thiệp, người đi ra ngoài cái khuôn sáo của loại văn chương dạy đời và tuyên truyền, hay nói theo tiếng Anh là thinking outside the box’. Tướng về hưu’ tiểu thuyết hoá một gia đình ngoài Bắc thời mới Đổi Mới’. Gia đình đó có ông Thuấn, là một tướng về hưu; bà vợ bị lẩn; người con trai nhu nhược làm việc ở Viện Vật Lí và cô dâu làm nghề bác sĩ chuyên nạo phá thai. Dưới đây là một đoạn mô tả gia đình đó bằng những câu chữ ngắn và có vẻ thô “Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn […] Tôi ba mươi bẩy tuổi, là kỹ sư, làm việc ở Viện vật lý. Thủy, vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa mười bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lẫn lộn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ.” Đó là những câu chuyện về mâu thuẫn giữa giá trị đạo đức truyền thống và thời Đổi Mới’ mà đồng tiền ngự trị và chi phối mọi sanh hoạt xã hội. Ông tướng về hưu cảm thấy mình lạc lõng trong cái xã hội mới. Trong Tướng về hưu, có một chi tiết làm tôi kinh ngạc hay kinh tởm là cô dâu của ông Thuấn hay đem nhau thai, có khi nguyên hình người, về nhà cho chó ăn. Dưới đây là đoạn mô tả kinh dị đó để các bạn thưởng lãm khó đọc nghen “Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua, chẳng quan trọng gì. Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc. Ông cầm phích đá ném vào đàn chó béc giê Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này. Đàn chó sủa vang. Ông bỏ lên nhà. Vợ tôi đi vào nói với ông Cơ Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết?!’ ông Cơ bảo Cháu quên, cháu xin lỗi mợ.“ Cố nhiên, đó chỉ là tiểu thuyết thôi. Nhưng dù là tiểu thuyết, Tướng về hưu vẽ lên một bức tranh rất đen tối trong cuộc sống ở miền Bắc trước thời Đổi Mới’. Đối với dân miền Nam như tôi, đọc những chi tiết về thời đen tối đó thấy khó tin sao có những con người vô đạo đức như thế, nhưng hoá ra là thật. Tướng về hưu’ còn có nhiều chi tiết hay khác nữa, những chi tiết mà có lẽ giới kiểm duyệt và văn chương phải đạo không thích. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp kể rằng trong bản thảo có câu đối thoại “Cái Vy hỏi “Đường ra trận mùa này đẹp lắm có phải không ông?”. Cha tôi chửi “Mẹ mày! Láo!”. Nhưng biên tập viên sửa chữ tếu’ thành láo’. Không ngạc nhiên khi Tướng về hưu’ mới vừa được xuất bản là đã gây tranh cãi. Bản thân tác giả hứng nhận nhiều chỉ trích gay gắt từ các nhà văn khác. Sau này ông giải thích rằng “Đến Chúa Jesus còn bị hắt hủi tại quê nhà cơ mà. Tôi thì ăn thua gì“, và “Bây giờ nghĩ lại, vào những năm 1988-1992, việc người ta phản ứng dữ dội với sáng tác của tôi là chuyện bình thường. Cũng giống như ngày xưa, khi cả xã hội đang mặc đồ bộ đội, một cô gái đột nhiên xuất hiện với chiếc quần bò sẽ làm người khác ngứa mắt. Sau này rồi thì người ta sẽ quen dần đi. Nhưng điều tệ hại là trong cuộc tranh luận văn nghệ đó, có những ý kiến không thuần văn chương, của những người ngoài giới, thậm chí còn có những vu cáo phi văn học.” Tác phẩm Tướng về hưu’ được trao nhiều giải thưởng văn học, nhưng đa phần là ở nước ngoài. Điều đáng buồn là ông giấu kín việc được trao giải thưởng. Khi được hỏi tại sao, Nguyễn Huy Thiệp cho biết vì ông sợ cái thói ganh tị của người Việt và những kẻ ganh ghét ông sẽ đàm tiếu. Điều này làm tôi nhớ đến chuyện trong nhóm nghiên cứu của tôi, có vài thành viên được trao giải thưởng danh giá về khoa học, nhưng họ không dám khoe’ ra, vì họ nói rằng ở VN ai mà khoe có giải thưởng là thế nào cũng bị ganh ghét! Nếu năm 1986 là cái mốc về đổi mới chánh trị, thì sự ra đời của tác phẩm Tướng về hưu’ được ví von là mở đầu cho thời kí đổi mới’ trong văn học sau 1975. Nay thì người mở đầu cuộc đổi mới đó đã về cõi vĩnh hằng, và quên đi những tháng ngày úp mặt vào núi’. Là một kẻ ngưỡng mộ văn tài của ông chớ không quen biết gì với ông, người viết cái note này mong ông thanh thản nơi miền Cực Lạc. ____ Các bạn có thể đọc thêm bài viết của Nhạc sĩ Tuấn Khanh về Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp ở đây

tại sao nguyễn văn đua về hưu